5+ chỉ số để tìm những cổ phiếu bị định giá thấp

3.2/5 - (4 bình chọn)

Để Thảo bật mí với các bạn một bí quyết để đầu tư chứng khoán có lời, đó là mua những cổ phiếu bị thị trường định giá thấp.

Hình thức đầu tư này còn được gọi là đầu tư giá trị do giáo sư Benjamin Graham khởi xướng. Theo đó, đầu tư vào các công ty bị định giá thấp là một cách tuyệt vời để có lời trong lâu dài.

Phải ngồi lì trước máy tính hàng tuần liền để phân tích hàng nghìn công ty niêm yết chăng? Có cách nào dễ dàng để tìm ra những viên ngọc đang ẩn mình đó không?

Câu trả lời là CÓ.

Trong bài này, Thảo sẽ hướng dẫn bạn cách để tìm những cổ phiếu bị định giá thấp trên thị trường chứng khoán.

Những ổ phiếu bị định giá thấp là điếu xì già hút dở?

Bạn có đang nhầm lẫn giữa giá rẻ và giá thấp không?

Giá rẻ thường có 2 ý nghĩa:

    • Thứ nhất, giá rẻ nghĩa là giá thấp.
      Ví dụ: có những chiếc áo sơ mi có giá hàng trăm triệu nhưng cũng có chiếc áo sơ mi chỉ vài trăm ngàn. Vậy chiếc áo vài trăm ngàn có giá thấp và người ta cũng nói là giá rẻ.
    • Thứ hai, giá rẻ đồng nghĩa với giá hời, bị định giá thấp.
      Ví dụ: Chiếc áo có giá vài trăm triệu kia, vào một ngày đẹp trời không rõ nguyên nhân, bỗng được bán giảm giá 50%. Vậy mức giá giảm đó chính là giá hời và nhiều người cũng gọi là giá rẻ.

Bắt đầu bằng câu chuyện về cổ phiếu giá rẻ (bị định giá thấp).

Hậu quả của cuộc Đại suy thoái năm 1929 là có rất nhiều công ty đã ngừng kinh doanh trong thời gian này.

Có nhiều cơ hội mua cổ phiếu với giá thấp hơn giá trị sổ sách và thu được lợi nhuận khi công ty thanh lý tài sản.

Benjamin Graham rất ưa thích phương pháp này. Nó còn được gọi là “Những điếu xì gà hút dở” (cigar butts). Nghĩa là mua công ty xấu với giá cực rẻ. Giá rẻ ở đây nghĩa là mức giá hời.

Warren Buffett cũng đã làm tương tự ở những năm đầu mới đầu tư, còn ít vốn.

Về sau, vì ảnh hưởng của Charlie Munger, phó chủ tịch Berkshire, Buffett đã có những thay đổi linh hoạt hơn trong chiến lược.

Thay vì tập trung hoàn toàn vào cổ phiếu bị định giá thấp, Buffett chuyển sang tìm kiếm những doanh nghiệp chất lượng cao với mức giá hợp lý.

Ưu điểm của những cổ phiếu bị định giá thấp

Mua cổ phiếu có giá rẻ hơn so với giá trị nội tại của nó là trọng tâm của phương pháp đầu tư giá trị.

Theo phương pháp này, giá cổ phiếu của một công ty không phải lúc nào cũng phản ánh đúng giá trị nội tại của nó.

Mọi người đều thích những món hời và để có những món hời thì chúng ta cần “mua rẻ bán đắt”. Trong khi đó, các cổ phiếu bị định giá thấp thường rẻ so giá trị thực sự của nó.

Điều mà nhà đầu tư giá trị làm là mua những cổ phiếu bị định giá thấp và nắm giữ cho đến ngày giá trị thị trường tăng lên bằng giá trị nội tại của nó. Nghĩa là, nhà đầu tư sẽ kiếm tiền nhờ tận dụng những sai lầm của thị trường.

Về ngắn hạn, thị trường có thể không nhìn thấy giá trị của những công ty này. Bởi thị trường trong ngắn hạn là một cỗ máy bỏ phiếu. Giá cổ phiếu phụ thuộc vào tâm lý thị trường nhưng trong dài hạn, thị trường là “cái cân đo”.

Mua cổ phiếu bị định giá thấp giúp hạn chế thua lỗ

Vào thời điểm, Benjamin Graham và David Dodd xuất bản cuốn “Phân tích chứng khoán” – năm 1934, Hoa Kỳ vẫn đang phục hồi sau cuộc Đại suy thoái năm 1929.

Trong thời kỳ này, cứ 4 công nhân thì có 1 người mất việc, hơn 4000 ngân hàng phá sản và thị trường chứng khoán mất gần 90% giá trị.

Graham và Dodd đã đưa ra quy tắc cơ bản của đầu tư giá trị: Tránh thua lỗ.

Đây được coi là một trong những bài học đầu tư giá trị cơ bản nhất của ​Graham.

Ví dụ: nếu giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư giảm 30% và sau đó công bố mức lãi 30%, thì nhà đầu tư đó thực sự chưa đạt đến điểm hòa vốn.

Giá trị của các khoản đầu tư hiện có thể thấp hơn 9% so với số tiền đầu tư ban đầu. Vì vậy, để thu hồi số vốn đã mất, nhà đầu tư lúc này phải tạo ra lợi nhuận cao hơn.

Tuy nhiên muốn lợi nhuận đầu tư cao hơn thường đi kèm với chấp nhận rủi ro cao hơn, thậm chí là lỗ đậm hơn.

Để khắc phục tình trạng này, các nhà đầu tư giá trị đạt được thành công bằng cách giảm thiểu rủi ro thua lỗ. Họ cố gắng giữ biên độ an toàn lớn thay vì đánh cược với những rủi ro cao chết người.

Biên độ an toàn

Cổ phiếu bị định giá thấp thì chênh lệch giữa giá trị nội tại và giá cổ phiếu hiện tại càng lớn. Điều này tạo nên biên độ an toàn càng cao, hạn chế rủi ro bị lỗ nhất là đối với nhà đầu tư phòng thủ.

Mặc dù điều này không phải lúc nào cũng thu được lãi lớn. Nhưng việc tránh thua lỗ sẽ đặt các nhà đầu tư giá trị vào vị thế tốt hơn và đạt được lợi nhuận cao trong dài hạn.

Trong đầu tư, hạn chế tổn thất thậm chí còn quan trọng hơn là tối đa hóa lợi nhuận.

Nhà đầu tư nào ghi nhớ nguyên tắc này có thể tích lũy tài sản của mình với tốc độ nhanh hơn và không bị gián đoạn. Giống như Warren Buffett đã từng nói: “Quy tắc số 1 là không bao giờ mất tiền. Quy tắc số 2 là không bao giờ quên quy tắc số 1 ”.

Nhược điểm của những cổ phiếu bị định giá thấp

Bẫy giá trị

Các nhà đầu tư đôi khi trở thành “con mồi” của cái gọi bẫy giá trị khi họ săn lùng cổ phiếu giá hời.

Bẫy giá trị là các khoản đầu tư đang giao dịch ở mức thấp. Bẫy giá trị có thể thể hiện qua những chỉ số rất hấp dẫn nhà đầu tư như P/E thấp, P/B thấp, cổ tức cao…

Bẫy giá trị giống như là cơ hội nên mua dành cho các nhà đầu tư nhưng thực tế lại ngược lại.

Các ngành sản xuất và xây dựng thường có chu kỳ. Doanh thu, lợi nhuận và giá cổ phiếu sẽ cao trong ở chu kỳ tăng giá, nhưng những điều này sẽ biến mất khi ngành ở trong chu kỳ giá xuống.

Khi các nhà đầu tư nhìn thấy một cổ phiếu bị định giá thấp, có thể là công ty và ngành này trong thời kỳ u ám thậm chí là đang trên bờ vực phá sản.

Phân tích cơ bản có thể là một công cụ hữu ích trong việc xác định các bẫy giá trị. Bởi vì chức năng chính của phân tích cơ bản là xem xét công ty có điều kiện tài chính mạnh hay không.

Phân tích cơ bản so sánh những tỷ số tài chính khác nhau của các cổ phiếu để định giá cổ phiếu.

Đọc thêm về phương pháp phân tích cơ bản tại đây.

Những tỷ số tài chính sau đây, khi phối hợp với nhau sẽ giúp tìm ra những cổ phiếu bị định giá thấp và tránh khỏi bẫy giá trị.

Ngoài ra, vì bị định giá thấp nên nhà đầu tư giá trị cần chờ đợi một thời gian dài, vài năm trở lên để cổ phiếu tăng giá. Kiên nhẫn chờ đợi lại là một điều không dễ chút nào với số đông.

5+ chỉ số để tìm những cổ phiếu đang bị định giá thấp

T l giá/ thu nhp (P/E)

Giá của cổ phiếu có thể hiện đắt/ rẻ?

Cổ phiếu đắt hay rẻ phải dựa vào tỷ lệ P/E chứ không phải dựa vào giá thị trường.

Tỷ lệ P/E bằng giá cổ phiếu của một công ty chia cho thu nhập trên mỗi cổ phiếu (EPS).

P/E cho nhà đầu tư biết số tiền phải đầu tư để đổi lại một đồng lợi nhuận của công ty. Tỷ lệ P/E càng cao, cổ phiếu càng đắt so với thu nhập của nó.

Ví dụ: Giả sử cổ phiếu A có giá thị trường là 50.000 đồng và EPS= 5.000 đồng/ cổ phiếu.

Do đó, cổ phiếu A sẽ có tỷ lệ P/E = 50.000/5.000 = 10.

Điều này có nghĩa là giá của cổ phiếu bằng 10 lần thu nhập của nó. Cần 10 năm để thu hồi vốn đầu tư ban đầu nếu lợi nhuận không đổi.

Mặt khác, cổ phiếu B có giá cũng là 50.000 đồng và EPS là 2.000 đồng/ cổ phiếu. Vậy tỷ lệ P/E của B là 25.

Có nghĩa là giá của cổ phiếu bằng 25 lần thu nhập của nó. Cần 25 năm để thu hồi vốn đầu tư ban đầu nếu lợi nhuận không đổi.

Vậy rõ ràng, cổ phiếu A được định giá thấp hơn cổ phiếu B. Nếu lợi nhuận không đổi thì theo lẽ thường, nhà đầu tư nên đầu tư vào cổ phiếu A.

Tuy nhiên, mọi việc không hề đơn giản như vậy. P/E của một công ty tự nó không đủ để xác định xem một cổ phiếu có bị định giá thấp hay không.

P/E còn phụ thuộc vào ngành và tỷ lệ P/E của các công ty tương tự.

Một số lĩnh vực có P/E ngành cao, trong khi các lĩnh vực khác thì tỷ lệ này tương đối thấp.

Ví dụ: Vào thời điểm Thảo viết bài này, P/E trung bình của ngành thép là 5,9. P/E của ngành dầu khí là 20,1. P/E của ngành công nghệ là 39,88.

Nếu các công ty trong một ngành có tỷ lệ P/E từ 25-30. Bạn tìm thấy một công ty tương tự có tỷ lệ P/E khoảng 15, thì có khả năng nó đang bị định giá thấp.

Vào năm 1999, Microsoft có P/E là 53,7. Con số này cao hơn gấp đôi tỷ lệ P/E khuyến nghị dưới 15 (dưới 25 tuổi với P/B thấp) của Benjamin Graham trong cuốn Nhà đầu tư thông minh.

Và 15 năm sau, nhiều nhà đầu tư vào Microsoft vẫn thua lỗ vì mua cổ phiếu với giá quá cao.

Bẫy giá trị liên quan đến P/E

Tỷ lệ P/E thấp có thể là dấu hiệu có điều gì đó không ổn với công ty hoặc với toàn ngành. Cổ phiếu có P/E thấp có thể không nhất thiết là dấu hiệu của cổ phiếu bị định giá thấp.

T lệ tăng trưởng giá trên thu nhp (PEG)

Một bước quan trọng trong đầu tư là hiểu được tiềm năng phát triển của một công ty. Đây là lúc mà tỷ lệ PEG phát huy tác dụng.

Tỷ lệ PEG tương tự như tỷ lệ P/E. Trong khi, tỷ lệ P / E không tính đến tốc độ tăng trưởng EPS của công ty. PEG nhấn mạnh tiềm năng tăng trưởng trong tương lai của công ty so với kết quả hoạt động trong quá khứ.

Bạn có thể tìm tỷ lệ PEG của một công ty bằng cách lấy P/E của nó và chia cho tốc độ tăng trưởng thu nhập của nó trong một khoảng thời gian.

Ví dụ:

Giả sử tỷ lệ P/E của một công ty là 20. EPS của công ty năm nay và năm ngoái lần lượt là 3.500 đồng và 2.750 đồng.

Tìm t lệ tăng trưởng thu nhp bằng cách chia EPS hiện tại cho EPS trong quá khứ và sau đó trừ đi một rồi nhân với 100%.

Tỷ lệ tăng trưởng thu nhập = [(3.500/ 2.750) -1]*100% = 27%

Vậy PEG= P/E/G = 20/27 = 0,74

Một công ty đối thủ trong cùng ngành và có tỷ lệ PEG là 1,3.

Vậy trong cùng ngành, công ty có PEG thấp hơn thì hời hơn. Bởi vì nhà đầu tư đang phải trả ít tiền hơn để tăng thu nhập.

T l giá trên giá tr s sách (P/B)

Cũng giống như tỷ lệ P/E, một thông số quan trọng khác để mua cổ phiếu bị định giá thấp là tỷ lệ P/B.

Tỷ lệ này được tính bằng cách lấy giá thị trường của một cổ phiếu chia cho giá trị sổ sách của một cổ phiếu của nó.

Giá trị thị trường trên mỗi cổ phiếu có được bằng cách đơn giản là nhìn vào giá cổ phiếu trên thị trường.

Giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu được tính như sau: (tổng tài sản – tổng nợ phải trả) / số lượng cổ phiếu đang lưu hành).

Tài sản và nợ phải trả được tìm thấy trên bảng cân đối kế toán của công ty.

Nói cách khác, nếu một công ty thanh lý toàn bộ tài sản của mình và trả hết nợ thì số tiền còn lại sẽ là giá trị sổ sách của công ty.

Ví dụ: cổ phiếu có P/B =2, nghĩa là giá thị trường được định giá gấp đôi giá trị sổ sách của nó.

Bất kỳ cổ phiếu nào có giá thị trường thấp hơn giá trị trên giấy tờ đều có thể là cổ phiếu bị định giá thấp.

Đối với những nhà đầu tư giá trị, cổ phiếu có tỷ lệ P/B < 1 có thể là cổ phiếu bị định giá thấp.

Tuy nhiên tỷ lệ P/B cũng khác nhau tùy theo ngành. Tỷ lệ P/B là tốt của một ngành có thể lại kém cho ngành khác.

P/B phù hợp để đánh giá các doanh nghiệp có nhiều tài sản, như ngân hàng, các tổ chức tài chính, công ty công nghệ…

T l P/S

Nhiều công ty có lợi nhuận âm, lợi nhuận bằng 0, nhất là các công ty mới thành lập nên không thể sử dụng tỷ lệ P/E để định giá.

Trong một ngành có tính chu kỳ cao, có những năm chỉ một vài công ty tạo ra bất kỳ khoản thu nhập nào. Điều này không có nghĩa là cổ phiếu đó là vô giá trị.

Khi đó, để định giá nhà đầu tư sẽ sử dụng tỷ lệ P/S.

P/S để đo lường giá trị mà các nhà đầu tư đầu tư vào đối với mỗi đồng doanh thu mà công ty đó tạo ra.

P/S = Vốn hóa thị trường / Doanh số bán hàng

Tỷ lệ P/S là một thước đo thường được sử dụng để định giá các công ty vẫn đang thua lỗ.

Nói chung, tỷ số P/S càng thấp càng tốt vì P/S thấp có thể cho thấy cổ phiếu bị định giá thấp.

Tỷ lệ P/S càng thấp so với các công ty cùng ngành thì khoản đầu tư càng hấp dẫn.

P/S cũng có một số hạn chế.

Nhiều công ty xây dựng, có doanh số bán hàng cao. Nhưng ngoại trừ một số công ty có lời nhiều thì phần lớn công ty lại tạo ra lợi nhuận khiêm tốn.

Ngược lại, một công ty nước giải khát lại có biên lợi nhuận rất cao. Họ có thể dễ dàng tạo thu được 4 đồng lợi nhuận ròng cho mỗi 10 đồng doanh thu bán hàng.

Một công ty nợ nần chồng chất và bên bờ vực phá sản cũng có P/S thấp. Điều này là do thị giá của cổ phiếu giảm nên P/S cũng thấp hơn.

Điều này bộc lộ một nhược điểm của tỷ lệ P/S là: P/S không tính đến khoản nợ trên bảng cân đối kế toán của công ty. Nợ là khoản tiền sớm muộn gì cũng phải trả, chưa kể còn thêm chi phí lãi vay kèm theo.

Hai công ty có cùng chỉ số P/S thấp thì công ty nào không có hoặc có ít nợ sẽ hấp dẫn hơn công ty có nhiều nợ.

Do vậy, nhiều nhà đầu tư ưa thích sử dụng Giá tr doanh nghip/doanh s bán hàng hơn là Giá tr vn hóa th trường/doanh s bán hàng.

Giá trị doanh nghiệp (EV) bao gồm giá trị vốn hóa thị trường cũng như nợ ngắn hạn và dài hạn.

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) là một tỷ số đánh giá hiệu quả của các nguồn vốn. ROE được coi là lợi nhuận trên tài sản ròng.

Do đó, công thức tính: ROE = (Lợi nhuận ròng / Vốn chủ sở hữu) x 100

Trong đó, Vốn chủ sở hữu = Tài sản – nợ.

ROE= 1 có nghĩa là 1 đồng vốn chủ sở hữu cổ tạo ra 1 đồng thu nhập ròng.

Tỷ lệ ROE cao hơn cho thấy mức độ thành công của doanh nghiệp trong việc tạo ra lợi nhuận từ nguồn vốn chủ sở hữu.

ROE thấp hơn cho thấy rằng công ty đang không tạo ra lợi nhuận hấp dẫn và vốn chủ sở hữu của cổ đông đang được sử dụng để mua các tài sản không hiệu quả hoặc không tạo ra thu nhập.

Ngoại trừ trường hợp, ROE cao do nợ nhiều. Nhất là khi ROE cao bất thường.

Công ty có thể vay nợ nhiều hơn hơn vốn chủ sở hữu giảm xuống và ROE tăng.

Do vậy, cần kiểm tra song song khoản nợ phải trả trên bảng cân đối kế toán xem có bất kỳ thay đổi nào trong gánh nặng nợ nần của công ty hay không.

ROE khác nhau tùy ngành.

Giả sử, một doanh nghiệp bán lẻ ABC có ROE là 14%. Đồng thời, mức trung bình của ngành là 10%.

Tức là ROE trung bình của các công ty ngang hàng nhỏ hơn ROE của ABC. Do đó, đầu tư vào công ty ABC có vẻ hấp dẫn hơn.

Bây giờ, giả sử một công ty hóa chất, XYZ có ROE là 18%. Và, ROE trung bình của ngành hóa chất là 21%.

Mặc dù ROE của công ty xăng dầu XYZ còn cao hơn ROE của công ty bán lẻ ABC.

Tuy nhiên, có thể thấy công ty XYZ đang hoạt động kém hiệu quả khi so sánh với các công ty cùng ngành.

Tỷ lệ Nợ/ Vốn chủ sở hữu

Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu cao thể hiện công ty có đòn bẩy tài chính cao và cực kỳ rủi ro.

Công ty nào có ít nợ sẽ có nhiều khả năng hoạt động bền vững hơn. Những công ty này không cần phải bán đi tài sản cố định của mình để trả nợ, nhất là trong những thời điểm khó khăn.

Graham khuyên nên chọn các công ty có Tỷ lệ nợ / Vốn chủ sở hữu < 1,10.

Tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu có thể thay đổi tùy theo ngành.

Điều này cực kỳ rõ ràng trong ngành dịch vụ tài chính như ngân hàng và công ty bảo hiểm. Hầu hết các ngân hàng và công ty bảo hiểm có tỷ lệ đòn bẩy cao.

Ngân hàng Lehman Brothers là một ví dụ của bẫy giá trị liên quan đến nợ.

Doanh nghiệp này tự hào về hệ số P/E thấp- khoảng 10,2. Giá ghi sổ rất hấp dẫn, tỷ lệ chi trả cổ tức hợp lý, EPS tăng đều đặn.

Các nhà đầu tư giá trị, các nhà đầu tư tăng trưởng và các nhà đầu tư cổ tức đều dễ bỏ qua nhược điểm chết người của Lehman: Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu lớn.

Trong năm ngay trước khi phá sản, Lehman Brothers có tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu là 29,73.

Điều này có nghĩa là Lehman có tỷ lệ đòn bẩy cao hơn 29 lần so với vốn chủ sở hữu và gần gấp 3 lần tỷ lệ đòn bẩy trung bình của ngành ngân hàng trung bình. Chỉ cần một cuộc khủng hoảng thị trường có thể để quét sạch hoàn toàn thành quả của nó.

Điều quan trng khi tìm c phiếu b đnh giá thp

Ngoài những số liệu tài chính cần quan tâm, nhà đầu tư cần phải tìm hiểu nhiều yếu tố khác nữa.

Đơn cử như cổ phiếu trong các lĩnh vực liên quan đến sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế dễ trở thành bẫy giá trị.

Một công ty dược phẩm có sản phẩm bán chạy nhưng sắp mất bảo hộ về quyền sáng chế trong tương lai gần thì phần lớn lợi nhuận của công ty này có thể biến mất nhanh chóng.

Chỉ vì một cổ phiếu “rẻ” không luôn luôn là cổ phiếu có giá trị. Bản thân các công ty phải có lịch sử hình thành và cho thấy tiềm năng phát triển lớn theo thời gian.

Đây là lý do tại sao hiểu biết sâu sắc về các công ty mới là nền tảng để định giá đầu tư.

Tìm hiểu kỹ về mô hình kinh doanh, lợi thế cạnh tranh, chính sách công ty…của những cổ phiếu bị định giá thấp để phát hiện bất kỳ báo động đỏ nào là việc quan trọng không kém.

Hơn nữa, tương lai của một công ty quan trọng hơn quá khứ khi định giá cổ phiếu.

Nhà kinh tế học, chuyên gia về “Tài chính hành vi”, người đoạt giải Nobel, Richard Thaler, và Werner de Bondt đã có nghiên cứu khá chấn động.

Họ phát hiện ra rằng trong suốt thời kỳ dài 1962-1982, những cổ phiếu có hoạt động kém nhất trên thị trường chứng khoán trong 3 năm trước đó, đã hoạt động tốt hơn đáng kể so với những cổ phiếu tốt nhất trong bảng xếp hạng của 3 năm trước đó.

Nói cách khác, thị trường chứng khoán có hiện tượng “Đảo ngược kết quả”.

Do đó, một doanh nghiệp tốt có thể là một khoản đầu tư tồi cho tương lai và ngược lại.

Tập trung vào triển vọng tăng trưởng của công ty trong những năm tới sẽ tạo nhiều cơ may tìm thấy những cổ phiếu bị định giá thấp có giá trị thực sự.

Đầu tư vào cổ phiếu định giá thấp

Với chi phí ban đầu thấp, mua những cổ phiếu bị định giá thấp là một cách đầu tư hứa hẹn thu được “1 vốn 4 lời”.

Tuy nhiên, không có gì đảm bảo, mọi cổ phiếu bị định giá thấp sẽ được đánh giá cao trong tương lai.

Trong bức thứ gửi cổ đông của Berkshire Hathaway 1989, Buffett đã trích dẫn rằng những vấn đề cơ bản đối với cổ phiếu rẻ mạt có thể không bao giờ kết thúc. Một lần nữa, ông ví von rằng: “Không bao giờ chỉ có một con gián trong nhà bếp”.

Đa dạng hóa danh mục đầu tư chính là cách Benjamin Graham đã khuyến cáo để đảm bảo an toàn cho những khoản đầu tư này.

Tác giả: ThảoThảo Bácsĩ

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
6

0 Góp ý
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận